CON NGƯỜI CÓ SỐ

Logo bay gio ke

Tr bang hoangCON NGƯỜI CÓ SỐ

Tên hắn là Khải. Hắn học với tôi năm lớp 11 tại trường Tân Phương, Gò Vấp. Nhà hắn ở trại định cư Cái Sắn nằm giữa hai tỉnh Long Xuyên và Rạch Giá. Hình như bố mẹ hắn có quen với một ông trùm họ đạo ngày trước cũng ở Cái Sắn, sau lên Sài Gòn, trông coi giúp Cha sở ở nhà thờ Ngã năm Bình Hòa, Gia Định.

Rồi hắn lên Sài Gòn, nhờ ông trùm đó xin với Cha cho ở nhờ ngoài hành lang nhà thờ, làm người kéo chuông, trông coi, quét dọn… để có chỗ ăn ở, đi học. Cha thấy hắn ngoan ngoãn, lễ phép, nhất là trước đây lại cùng họ đạo với ông trùm nên rất vui lòng.

Lúc ấy, tại Xóm Gà Gia Định có trường Tân Phương của ông Phan Ngô mới mở, dạy tới lớp Đệ Nhị (tức lớp 11 bây giờ). Cha nói với ông Phan Ngô xin cho hắn học miễn phí để chuẩn bị đi thi Tú tài I. Phần vì trường mới mở đang cần học sinh, phần vì nể lời Cha nên ông Phan Ngô cũng đồng ý. Ngoài ra, Cha thấy hắn ham học ngoại ngữ, giỏi tiếng Anh nên mỗi tháng cho tiền hắn học thêm Anh văn cao cấp ở Hội Việt Mỹ đường Mạc Đĩnh Chi, Tân Định.

Như vậy, ngoài việc học ở trường Tân Phương vào các buổi sáng, cứ đến buổi chiều, mỗi tuần ba lần, hắn cuốc bộ từ Gia Định lên Tân Định để học tại Hội Việt Mỹ. Cha cũng thích ngoại ngữ, buổi tối hắn thường chỉ dẫn thêm tiếng Anh cho Cha.

Tr ban be 6Trường hợp tôi thì lại khác. Nhà tôi cũng nghèo, mẹ tôi làm thợ dệt nhưng tôi thi đậu hạng nhì vào lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) trường Nguyễn Trãi nên được học bổng, mỗi tháng 300 đồng, tương đương với một chỉ vàng lúc bấy giờ, việc sách vở, học hành đỡ phải lo lắng.

Ba năm sau, khi bắt đầu lên đến lớp Đệ Ngũ (lớp 8), tôi và hai bạn khác trong lớp rủ nhau “học nhảy” : Trường Nguyễn Trãi lúc đó chưa có cơ sở nên phải học nhờ tại trường Tiểu học Đa Kao ở số 94 đường Phan Đình Phùng (bây giờ là đường Nguyễn Đình Chiểu). Tất cả các lớp đều học buổi chiều, còn buổi sáng thì học sinh trường Đa Kao học.

Buổi sáng được nghỉ, ba đứa chúng tôi đóng học phí học lớp Đệ Tứ (lớp 9) trường Cộng Hòa của giáo sư Phạm Văn Vận ở đường Pasteur để thi Trung học Phổ thông, nếu đậu sẽ sớm được một năm, cái đó kêu là “học nhảy”. Nhà nghèo, nên dù học thêm lớp Đệ Tứ trường tư nhưng tôi vẫn tiếp tục học lớp Đệ Ngũ trường công để được học bổng và đề phòng nếu rớt Trung học thì vẫn có chân trong trường công.

Cuối năm ấy, cả ba đứa chúng tôi đều đậu Trung học, rồi thi vào lớp Đệ Tam (lớp 10) trường Hồ Ngọc Cẩn, tức lại trở lại trường công. Tôi đậu hạng 5 trong số 52 học sinh thi đậu, hơi thấp, không được học bổng vì Bộ Quốc gia Giáo dục chỉ cho mỗi lớp có 3 người, từ hạng 1 tới hạng 3. Hai anh bạn yên tâm học lớp Đệ Tam tại Hồ Ngọc Cẩn, còn tôi, nhảy được một năm nhưng mất học bổng, tôi ân hận lắm.

Đúng lúc ấy ông Phan Ngô mở trường Tân Phương có tới lớp Đệ Nhị (lớp 11 bây giờ – thời đó trường tư chưa trường nào có lớp Đệ Nhất, học xong lớp Đệ Nhị, đậu xong Tú tài I được quyền xin vào Đệ Nhất trường công, bắt buộc trường công phải nhận, thời ông Diệm là như thế, rất ưu tiên cho học sinh).

Ông Phan Ngô là hiệu trưởng trường Tân Thịnh ở đường Đinh Công Tráng, Tân Định. Người em con chú con bác với ông là ông Phan Thuyết làm giám đốc. Trường dạy giỏi, nổi tiếng nên rất đông học sinh. Nhưng không hiểu hai anh em có chuyện xích mích gì đó nên bán trường, ông Phan Thuyết về mở trường Đạt Đức ở Phú Nhuận, còn ông Phan Ngô mở trường Tân Phương ở Gò Vấp.

Tr Thay tro 2Ông cho người phát quảng cáo, mời học sinh thi cũng gọi là học bổng vào lớp Đệ Nhị nhưng khác với học bổng của Bộ Quốc gia Giáo dục là lấy 3 người, người hạng nhất và hạng nhì được miễn học phí, người hạng ba được giảm 50%, còn những người khác thì được cứu xét, nếu nghèo sẽ được giảm. (“Học bổng” của nhà nước Việt Nam hiện nay cũng vậy, chỉ được miễn hay giảm học phí chứ không có tiền. Sinh viên học giỏi mà nghèo thì có thể vay, tối đa mỗi tam cá nguyệt được 400 ngàn đồng tức khoảng 20 đô-la Mỹ, một năm được 1.6 triệu, tức 80 đô-la, sau khi tốt nghiệp, đi làm sẽ phải trả lại). Học sinh thi khá đông. Tôi lại đậu hạng nhì nên được miễn học phí.

Vào học lớp Đệ Nhị trường Tân Phương, tôi quen với hắn rồi dần dần hai đứa trở thành thân thiết với nhau.

Tôi chưa từng thấy một người bạn nào nghèo như vậy. Ngày nào đi học hắn cũng mặc một bộ đồ duy nhất : chiếc áo sơ mi cũ màu cháo lòng có hai miếng vá, một miếng ở lưng, một miếng ở vai; chiếc quần ka ki cũng cũ, vá một miếng lớn ở mông. Có lẽ hắn tự vá lấy bằng chỉ đen, đường chỉ vụng về trông thô kệch chẳng ra sao cả. Chân hắn đi đôi dép Nhật mòn vẹt, sứt mẻ, một quai màu xanh, một quai màu đỏ, cột bằng dây kẽm. Có lần tôi hỏi sao hai quai dép lại bên xanh bên đỏ ? Hắn cười, hơi mắc cỡ : “Tại mình nhặt được trong thùng rác ấy mà. Nó bị đứt, họ vứt đi, mình kiếm được hai cái quai cột vô đi tạm chứ chẳng lẽ đi học lại đi chân không”.

Hắn nghèo, cả lớp ai cũng biết nhưng ai cũng thông cảm, chẳng ai chê cười. Nhất là các chị, nhiều khi giấm giúi cho hắn tiền uống nước. Ngày tết, trường tổ chức cắm trại, thi đấu bóng chuyền và văn nghệ ở trong sân, mỗi lớp có một cái quầy nho nhỏ cung cấp bánh mì, kẹo bánh và nước ngọt cho lớp của mình. Mỗi bạn trong lớp đóng mỗi người 10 đồng, hắn không có tiền, định không tham dự, các chị bàn nhau không bắt hắn đóng.

Tr Bac ky 2Cuối năm ấy, lớp chúng tôi có 51 người, thi đậu ngay trong khóa 1 là 13 người, trong đó có tôi và hắn. Tỉ lệ như vậy là khá cao, bởi vì thi tú tài thời đó rất khó, trường tư giỏi lắm cũng chỉ đậu khoảng 10% là cùng, đằng này đậu tới hơn 25%. Thầy Phan Ngô mừng lắm, thầy nói : “Trường Tân Phương là nhứt, không khác gì trường Tân Thịnh ngày trước”.

Sau khi đậu xong Tú tài phần I, các bạn người Nam thì đa số nộp đơn vào học lớp Đệ Nhất (lớp 12) trường Petrus Ký, còn tôi và hắn là người Bắc nên nộp đơn vào trường Chu Văn An. Tôi từ trường công lại trở lại trường công, “nhảy” được hai năm. Còn hắn, có sự tiến bộ : ông trùm nhà thờ Ngã năm Bình Hòa cho hắn mượn một chiếc xe đạp cũ. Hội Phụ huynh học sinh Chu Văn An cứu xét, thấy hắn nghèo, cho hai kỳ học bổng, mỗi kỳ 500 đồng và một bộ quần áo may sẵn, hơi ngắn.

Cuối năm ấy, đậu xong Tú tài phần II, tôi thi vào Đại học Sư Phạm còn hắn thì thi vào trường Kỹ sư Phú Thọ nhưng rớt. “Cậu ngốc lắm, giá thi Sư Phạm với tớ có lẽ đã đậu, thi Kỹ sư Phú Thọ khó muốn chết, tớ không dám nghĩ đến”. “Tại tớ thi ngành Điện nên mới rớt chứ giá thi Công chánh hay Công nghệ thì đỡ hơn”.

Hắn rớt, đáng lẽ bị kêu đi sĩ quan Thủ Đức nhưng có người anh cũng đã ở trong quân đội nên được hoãn. “Tớ phải về Cái Sắn làm giấy tờ nộp hồ sơ hoãn dịch cậu ạ”. “Hoãn thì được rồi nhưng làm sao có tiền đi xe ?”. “Cha có cho. Cha dặn làm giấy tờ xong, nhớ lên xem người ta có cho thi vào ngành nào thì thi chứ không lại lỡ mất một năm học”.

Hôm lên, hắn đến nhà tôi chơi và hỏi những ngày hắn về Cái Sắn, ở Sài Gòn họ có cho thi gì không. Tôi nói Tổng nha Cảnh sát ra thông cáo cho thi lấy 50 người vào học khóa Biên tập viên cảnh sát, học bổng mỗi tháng cũng 1,500 đồng giống như Đại học Sư phạm và Quốc gia Hành chánh.

– “Biên tập viên cảnh sát là làm gì ?”.

– “Tớ không rõ, họ nói cũng học 3 năm, ra làm phó quận cảnh sát”.

– “Được đấy, có lẽ tớ sẽ nộp đơn thi Biên tập viên cảnh sát”.

Thời chúng tôi, con nhà nghèo, thi vào ngành nào thì phải nhắm có học bổng chứ nếu học những trường không có học bổng như Y khoa, Dược khoa, Luật, Văn khoa, Khoa học v.v…, tuy không phải thi tuyển nhưng không có tiền ăn học suốt bao nhiêu năm.

Giữa lúc hắn đang lo làm đơn thi Biên tập viên cảnh sát thì có tin Bộ Quốc gia Giáo dục ra thông cáo, Cơ quan Văn hóa Liên Hiệp Quốc UNESCO cho hai học bổng, một thi tiếng Anh, du học tại Mỹ, một thi tiếng Pháp, du học tại Pháp hay Thuỵ Sĩ gì đó, tất cả mọi khoản đều do Liên Hiệp Quốc đài thọ, học tiến sĩ kinh tế, sau này sẽ ra làm cho Liên Hiệp Quốc, giúp đỡ các nước nghèo.

Tr ban be 2– “Cậu đã biết tin đó chưa ?”.

– “Chưa, tớ không biết gì hết, nhà thờ đâu có radio mà nghe. Cậu có nộp đơn không ?”.

– “Không, Tú tài II tớ đậu Bình Thứ chứ đâu phải hạng Bình như cậu. Họ bắt phải từ hạng Bình trở lên mới được thi”.

Thời chúng tôi, thi tú tài I hay tú tài II, kết quả thi đậu có 5 hạng gọi theo tiếng Pháp : đậu thường gọi là hạng Thứ (Passable); trên Thứ là Bình Thứ (Assez Bien); trên Bình Thứ là Bình (Bien); trên Bình là Ưu (Honorable); rồi đến Tối Ưu (Très Honorable) là hết mức, môn nào cũng phải đạt tối đa khoảng 20 điểm. Hắn đậu Bình, cao hơn tôi một bậc.

– “Nộp thì nộp vậy thôi chứ cả Anh văn lẫn Pháp văn mới lấy có hai người, khó lắm, chắc tớ không đậu được đâu”.

– “Biết đâu đấy, cứ nộp đơn đi, may mà giờ vinh quang đã điểm thì bọn cắc ké nghèo mạt rệp như tụi mình cũng ngon lành ra phết”.

– “Vậy tớ nộp đơn cả bên UNESCO lẫn bên Biên tập viên cho chắc ăn”.

Hắn nộp đơn xong, khoảng hai tháng sau thì dự cuộc thi của UNESCO. Hắn kể rằng, đợt thứ nhất, hơn 200 người cả Anh văn lẫn Pháp văn, thi viết, loại bớt còn 50 người. Đợt thứ nhì, 50 người lại loại lần nữa, còn lại 10 người trong đó còn có hắn. Rồi 5 người trong nhóm Anh văn bọn hắn vào “sát hạch” tại tòa đại sứ Mỹ, còn 5 người nhóm Pháp văn thì sát hạch tại tòa đại sứ Pháp hay Thuỵ Sĩ, hắn không để ý.

Hắn kể, giám khảo nhóm Anh văn của hắn gồm ba giáo sư, một ông người Mỹ, một ông người Canada, một ông người Úc hay Tân Tây Lan gì đó hắn không biết rõ, tất cả đều nói tiếng Anh.

Tr sinh vien 2Họ thay đổi nhau quay hắn về tình hình kinh tế các nước trên thế giới, về vai trò của một nhà kinh tế học đối với các nước nghèo như ở châu Phi chẳng hạn.

Cuối cùng, vị giáo sư người Úc hay Tân Tây Lan hỏi hắn quê ở đâu, cha mẹ làm nghề gì, từ nhỏ tới lớn sống như thế nào…, hắn nói thật rằng quê hắn ở Nam Định, di cư vào Nam năm 1954, ở trại định cư Cái Sắn thuộc tỉnh Long Xuyên, bố mẹ hắn rất nghèo, làm nghề trồng cói và dệt chiếu ở Cái Sắn, còn hắn thì kéo chuông và hầu hạ trong Nhà thờ Bình Hòa để có chỗ ăn học.

Tất cả ba vị giám khảo đều trợn tròn mắt, không ngờ một học sinh được vào chung kết của một cuộc thi quan trọng như vậy mà gia đình lại nghèo đến thế. “Dám cậu thắng mấy người kia nhờ cái nghèo của cậu lắm ạ ! Người Tây phương họ có cái nhìn khác lắm, sẵn sàng ưu tiên cho người nghèo nếu thấy thực sự đó là người giỏi chứ không khinh bỉ người nghèo như bên Việt Nam mình”.

– “Tớ cũng hy vọng như vậy. Trông nét mặt ba vị giám khảo thấy họ có vẻ có cảm tình với tớ lắm. Nhưng thôi, kệ, muốn đến đâu thì đến. Tớ cam đoan với cậu thi Biên tập viên cảnh sát tớ đậu là cái chắc. Làm phó quận trưởng cảnh sát cũng bảnh ra phết !”.

Trong khi tâm sự, hắn kể với tôi rằng bữa đi mua giấy tờ lập hồ sơ thi du học, hắn mua ở tiệm sách Thanh Trúc gần Ngã tư Phú Nhuận. Cô con gái bà chủ cỡ chừng 15 – 16 tuổi, xinh lắm và rất tốt bụng. Thấy hắn vét túi mà vẫn không đủ tiền trả, cô ta cười rồi cho luôn, không tính một đồng nào cả.

– “Cô bé cỡ 15 – 16 tuổi, vậy là cô em. Cô chị lớn hơn, khoảng 17 – 18 tuổi, mặt tròn, cũng đẹp nhưng không xinh bằng cô em”.

– Ủa, thế cậu cũng biết tiệm đó?”.

– “Biết chứ, tớ là dân Phú Nhuận mà, vẫn mua sách ở tiệm đó”.

Tr con gaiTôi kể cho hắn nghe bà mẹ còn tốt hơn nữa. Hồi tôi được phần thưởng cuối năm ở trường Tân Phương, trong số các cuốn sách lãnh thưởng có cuốn Triết Học Nhập Môn của tác giả gì tôi quên mất tên. Cuốn sách đó nghiên cứu về triết học nói chung chứ không phải sách lớp Đệ Nhất dạy về triết học để đi thi tú tài II. Tôi đem đến tiệm Thanh Trúc nhờ bà chủ đổi cho cuốn Luận Lý Học của tác giả Trần Bích Lan tức nhà thơ Nguyên Sa, giáo sư triết trường Chu Văn An.

Bà coi qua cuốn sách của tôi rồi cười : “Sách người ta tặng cho các trường để phát phần thưởng thường là sách khó bán nên họ mới tặng. Tiệm tôi không bán loại này. Nhưng thôi, cậu được phần thưởng như vậy là quý, muốn đổi thì tôi cũng đổi để cậu may mắn, năm tới thi đậu. Một vài cuốn sách chẳng đáng bao nhiêu…”.

Cuốn Luận Lý Học của giáo sư Trần Bích Lan đắt hơn cuốn Triết Học Nhập Môn một chút nhưng bà chủ tiệm cũng cho luôn, không bắt trả tiền chênh lệch. Tôi kết luận rằng bà mẹ tốt bụng như thế nên các cô con gái cũng tốt là một chuyện thường.

Hắn thở dài, nét mặt hơi buồn : “Nhà họ giàu, tiệm sách có tới mấy tầng lầu ở ngoài mặt đường, còn mình thì nghèo rớt mồng tơi không đáng xách dép cho họ. Tớ nói thật, nếu tớ được học bổng đi du học bên Mỹ kỳ này, đậu xong tiến sĩ tớ sẽ trở về, quỳ xuống dưới chân cô ấy, nói với cô ấy rằng nhờ cô cho giấy tờ lập hồ sơ nên tôi mới được du học, không bao giờ tôi dám quên ơn cô…”.

Tôi bật cười : “Cậu ngốc thấy mẹ, nếu đậu thì đến báo tin từ trước khi đi cho người ta còn chờ đợi chứ đậu xong tiến sĩ, hàng chục năm trời, họ lấy chồng mất tiêu rồi thì lúc ấy có ngồi mà khóc !”.

– “Ừ há, mình cũng ngu thật. Nhưng biết họ có đợi hay không ?”.

– “Tại sao lại không ? Vấn đề là cậu có thắng được mấy người kia hay không chứ nhà giàu thì họ khôn lắm, họ dư biết giá trị của một thằng học sinh nghèo được học bổng du học bên Mỹ”.

Và tôi nói thêm : – “Ngoài ra, sang đấy ăn ở ra sao, học hành thế nào cậu luôn luôn viết thư về cho em chứ đâu phải như Kinh Kha sang Tần, một đi là không trở lại”.

– “Ờ há, vậy mà tớ không nghĩ ra, tớ phải ghi địa chỉ tiệm sách nhà em mới được”.

Thế rồi hắn đậu thật, hơn 200 người, lấy có 2 người, khó chứ không phải dễ. Tội nghiệp, trước khi đi hắn vẫn còn nghèo bởi vì sang bên ấy, vào học trường nào rồi người ta mới trả lại tiền vé máy bay và bắt đầu cho lãnh học bổng chứ không phải họ đưa trước.

Mọi thứ chi phí như mua sắm va-li, giày dép, quần áo mặc trong mùa lạnh, kể cả tiền vé máy bay v.v… đều là của Cha (LM) cho. Cha còn nói hôm hắn đi, Cha bận không đưa tiễn được nhưng sẽ cho tài xế chở hắn ra phi trường.

– “Rồi ông cụ bà cụ cậu ở dưới Cái Sắn có lên không ?”.

Tr sinh vien 3Hắn lắc đầu, vẻ mặt buồn buồn :

– “Không, gia đình tớ nghèo lắm, không có bà con anh em gì ở trên này. Bố mẹ tớ nói lên đây vừa tốn tiền lại vừa làm phiền Cha, không có chỗ ở chẳng lẽ lại ở nhờ Cha trong nhà thờ”.

Tôi tưởng tượng ra cảnh hôm hắn đi, chắc chỉ có mình tôi và người tài xế của Cha đưa hắn ra phi trường. Nhưng ra đến đấy người tài xế sẽ quay trở lại chứ đâu có tiễn làm gì, chung quy chỉ có mình tôi mà thôi.

– “Cậu đã đến từ biệt cô bé chưa ?”.

– “Có, tớ có đến nhưng cô ấy mắc đi học, chỉ gặp bà mẹ. Tớ kể cho bà ấy nghe chuyện cô bé cho giấy tờ làm đơn, nhờ đó tớ mới được du học, tớ đến chào từ biệt và gửi lời nhờ bà cám ơn cô bé giùm”.

– “Bà ấy có nói gì không ?”.

– “Có, bà ấy xuýt xoa, thế ạ, quý hóa quá nhỉ, tôi không biết gì hết chứ nếu biết tôi đã mời cậu đến nhà dùng bữa cơm thân mật. – Bao giờ cậu đi ? – Dạ, thưa sáng mai. – Sáng mai, sớm vậy sao ? Vậy là không kịp rồi, cậu không đến đây từ trước. Bà ấy tiếc lắm. Tớ cám ơn bà ấy rồi đi…”.

– “Đó, cậu thấy chưa, tớ đã nói nhà giàu, nhất là một tiệm sách quen với chữ nghĩa, họ không dại gì mà không biết giá trị của con người”, và tôi giục :

– “Cậu đến nữa đi, phải gặp cô bé bằng được và dặn cô ấy chờ đợi, học xong cậu sẽ trở về”. Hắn lắc đầu :

SG Tr Van Tu 1– “Không dám đâu, đến sợ lại gặp bà ấy nữa tớ mắc cỡ lắm. Dù sao cô ấy cũng hãy còn nhỏ…”.

– “Trời đất ơi, 15-16 tuổi mà nhỏ cái gì ! Sang đấy cậu phải học cử nhân, cao học, tiến sĩ, ít nhất cũng 8 năm nữa. Lúc ấy cậu khoảng 28, cô bé 24, chả nhỏ một tí nào cả”.

Hắn khẽ thở dài :

– “Nói thật với cậu, từ bé tới lớn tớ khổ sở quá nên không dám nghĩ tới chuyện cao xa. Trước khi ra đi, tớ chỉ mong được nhìn thấy cô ấy một lần, được nghe thấy cô ấy nói một tiếng là sung sướng lắm rồi. Sang đấy tớ sẽ cố gắng học hành để đền đáp ơn nghĩa cô ấy…”.

Trần Văn Tư post (chuyện kể của Đoàn Dự)

Logo van de

Ng Ngoc Tu 1NGƯỜI ĐI CHỢ

– Nguyễn Ngọc Tư

Năm trước đưa thằng nhỏ đầu lòng thẳng vô lớp một chỉ tốn chai rượu nhập khẩu màu hổ phách, năm nay nhà trường nhận chuẩn quốc gia nên phải lót đường năm triệu cho con nhỏ em qua cỗng. Nói gì xa, góp tiền cúng đình cũng phải tăng gấp đôi coi mới được. Thằng em học đại học Mỹ thuật xong rồi, giờ ngồi vẽ bảng hiệu, xui nó ra mở quầy bán chữ nhiều tiền hơn, ai cũng muốn treo mấy chữ Tài Lộc trong nhà. Đá Bạc bị đem bán cho tư nhân làm du lịch rồi, họ sẽ san núi bạt rừng trồng mấy con rồng xi măng lên, sơn màu hàng mã cho coi. Vườn chùa ngoại thành đang bán mấy chỗ nằm đẹp, nhà có người già nên mua để sẵn, sau này biết đâu không còn đất.

Những câu chuyện bán mua rời rạc này chúng ta vẫn thường nhặt nhạnh từ buổi ăn vặt, cuộc cà phê hay trong lúc chờ xe rời bến. Cái giọng điệu của người góp chuyện cũng bình thản như cảm giác của người nghe. Dù hàng hóa trong những cuộc mua đi bán lại đó không phải mấy món thông dụng kiểu như gạo, rau, hay nắm xôi, cái áo. Bất cứ gì cũng là hàng hóa, lạ gì. Sống trong tâm thế của một kẻ đi chợ, và cả nước là một cái chợ khổng lồ, hàng họ đa dạng đến mức mua gì cũng có, kể cả mua thần bán thánh, chức tước, trinh tiết, thận người… chúng ta bớt bỡ ngỡ đi. Giống như câu mà trẻ con hay đùa, “trước còn mắc cỡ giờ đỡ nhiều rồi”. Người ta có thể mua dặm dài bờ biển để làm khu nghỉ dưỡng, mua một vùng đất để khai khoáng, mua cả dòng sông làm thủy điện, thậm chí biết đâu còn mua lại được mạng sống từ cái án tử hình…

Dừng lại vài phút ở chương trình tiêu dùng chán ngắt của truyền hình địa phương, thấy được lý do vì sao nó chán ngắt. Người xem bây giờ đâu chỉ quan tâm tới giá vàng thế giới, và mặt hàng thiết yếu đâu chỉ gạo với xăng. Họ rất muốn biết giá của bằng tiến sĩ, vị trí kế toán của một sở cấp tỉnh hay phó phòng cấp huyện… để mà nuôi nấng những giấc mơ, thứ giấc mơ mà chỉ cần đủ tiền sẽ thành sự thật. Sống chết cùng cái chợ khổng lồ này, ít nhiều chúng ta cũng thắc mắc giá thành thật sự của một công trình xây dựng trụ sở sau những rơi rụng, con đường nhập nhoạng trở về thành phố của một cô giáo vùng sâu, hay cánh cửa phía sau của cuộc đề bạt cán bộ…

Tr tre con 5Đôi lần chúng ta thấy giật mình, vô lý một chút, “Ủa, chỉ vì muốn con mình học ở cái trường tử tế, sao mình lại lọt vô chợ này ?” Trong cái không khí ngờm ngợp mặc cả, cái chợ mấy chục triệu người tồn tại bằng những điều vô lý cỏn con như vậy cộng lại. Cỏn con như vài thứ giấy tờ tùy thân sai, một bữa nọ rảnh rỗi muốn đi làm lại bỗng một người hỏi muốn nhanh lẹ không, mua thời gian đi, cũng rẻ. Cỏn con như chạy vào đường một chiều, anh cảnh sát ngoắc lại, nói anh cũng bán làm ngơ. Cỏn con như vào viện nằm, chị hộ lý bảo muốn chị cười thì phải mua. Vậy là thành người đi chợ. Lơ vơ vậy mà chuyên nghiệp lúc nào không hay. Không phải chỗ nào cũng trưng bày sáng loáng cũng treo bẹo cũng cất giọng rao ngọt lịm ai mua hong, cuộc bán chác đôi khi chỉ là cái nháy mát, cái bắt tay lặng lẽ, cùng với những thầm thì.

Không giống như cái chợ má hay ngồi bán mớ ngò gai, rau cần hái được trong vườn nhà để mua lại dầu hôi nước mắm, như một cuộc trao đổi cho nhau những gì mình có. Trong cái chợ hình chữ S buổi tranh tối tranh sáng này, có một thứ trật tự riêng của nó. Không phải ai cũng có cơ hội để bán mua. Chịu khó nghiêng ngó chút sẽ thấy có những đám người vào chợ phiên chẳng mua bán gì. Trôi dạt ra từ con sông đã bán làm thủy điện, từ cánh rừng đã bạt phẳng để đào quặng, từ vạt đồng sắp trở thành sân golf sang trọng bậc nhất nhì (của cái gì không cần biết, cứ nhất nhì là sướng)… HNg Le Dinh Phu 2Ngồi thành chùm thành bầy suốt phiên này đến phiên khác, họ xác nhận lại cái sự vô hình của mình là có thật.

Họ buồn. Cái buồn gần như không giải tỏa được. Nỗi buồn kiểu đó thường sinh ra vài tình cảm tiêu cực như muốn chết, không thì uất ức giận dữ, muốn đập phá. Chính quyền không sợ vì nghĩ vô hình thì làm được gì mà lo. Ai mà nghĩ đám đông buồn phiền ấy từng làm nên bao nhiêu cuộc cách mạng động trời, chỉ vì muốn được người ta nhìn thấy.

Phú Lê post

Logo su kien

NHỮNG MỐI TÌNH NGOÀI LUỒNG

CỦA CỐ TT JOHN F. KENNEDY

Bên cạnh vụ ám sát John F.Kennedy thì đời tư của vị cố Tổng thống này khiến dư luận tốn không ít giấy mực. Trong đó, người ta nhắc nhiều tới hàng loạt mối tình ngoài luồng của người đàn ông quyền lực và trăng hoa bậc nhất Nhà Trắng một thời

9 Kennedy 1Người đàn ông trăng hoa bậc nhất Nhà Trắng

Phải nói rằng cố Tổng thống John F.Kennedy (JFK) là người đàn ông có duyên với quá nhiều phụ nữ. Số phụ nữ mà vị cố tổng thống này cặp kè thuộc đủ mọi tầng lớp. Từ gái điếm, vũ nữ thoát y, thư ký, tiếp viên hàng không… cho đến người nổi tiếng. Kinh nghiệm tình dục đầu tiên của John có được từ năm 1933, khi ông và người bạn tới một nhà thổ ở Har Lem để tìm gái điếm. Mục đích của hai người đàn ông này khi tới đây là muốn tò mò làm mất trinh tiết một người phụ nữ.

Trong thời gian Joseph Kennedy – cha của John làm đại sứ ở London, cả gia đình John tới London sinh sống. Và John luôn ganh đua với các anh em trai về số phụ nữ mình chinh phục được.

Quan hệ tình ái nghiêm túc đầu tiên của JFK là với một phụ nữ vào năm 1941. Năm ấy, ông gặp Inga Arvad – người phụ nữ đã có chồng, là nhân viên một tờ báo ở Washington. Ngay mùa thu năm đó, hai người bắt đầu sống cùng nhau trong một căn hộ ở thủ đô. Trước khi gặp Inga, hiếm khi John ngủ với một người phụ nữ nào đến hai lần. Biết chuyện này, cha John vô cùng tức giận và nói với John hãy quên chuyện này đi. Hơn nữa Inga còn bị nghi có quan hệ với một người đàn ông từng làm gián điệp. Sau nhiều áp lực từ phía cha, họ cũng chia tay nhau và Inga sau đó lấy chồng.

Người ta còn nói về việc trăng hoa của JFK qua các lá thư tình. Trong đó, ông viết thư cho nhân tình nhiều đến mức còn dán nhầm phong bì tên người tình nọ với người tình kia. Cuối những năm 1940, John còn có quan hệ với những phụ nữ nổi tiếng như ngôi sao quần vợt Anh Kay Stammers, nữ diễn viên Gene Tierney và nhiều phụ nữ vô danh khác.

9 Kennedy 2Nhưng người ta thấy ông có quan hệ nhiều nhất là với các nữ tiếp viên hàng không và các thư ký. Hầu như tối nào những phụ nữ này cũng đến nơi JFK ở George Town. Họ đến nhiều đến nỗi John không nhớ hết tên họ được nữa. Một người bạn của John kể lại. Có lần anh ta ngủ lại nhà JFK và thấy ông đi xem phim về khuya cùng một cô gái. Một lúc sau lại có một cô gái khác đến phòng John. Sáng hôm sau ông lại thấy một cô gái khác cùng John xuống ăn sáng.

Vì trăng hoa nhiều nên John đã để cho thói trăng hoa ảnh hưởng đến chính trị. Có lần đang tranh cử để vào Quốc hội, JFK đã bỏ dở một cuộc diễu hành ở Boston để kịp lên tàu vì có một cuộc hẹn với một cô nhân tình ở New York. George Smathers – một nghị sỹ, bạn của John nhận xét: “John rất thích các cô gái, thích một cách điên cuồng. Ông ta quả là một tay chơi gái có hạng”.

Cuối cùng thì người đàn ông trăng hoa JFK cũng quyết định gắn bó cuộc đời mình bằng cuộc hôn nhân với Jacqueline Bouvier vào năm 1953. Nhưng cuộc hôn nhân này vấp phải không ít sóng gió bởi chính tính lăng nhăng của John. Chỉ ít lâu sau khi cưới, đã có lúc vợ ông – bà Jacqueline tính chuyện ly hôn vì không chịu được cảnh John công khai vui thú với các cuộc tình ngoài luồng.

9 Kennedy 3Một lần gặp Thủ tướng Anh – Harold Macmillan ở Bahamas vào năm 1962, Kennedy đã nhìn như nuốt lấy một cô gái trẻ rồi bảo : “Ngài biết không, thật buồn cười, nhưng nếu suốt một thời gian dài mà không có phụ nữ thì thế nào tôi cũng đau khổ”.

Cuộc tình với nữ thực tập sinh 19 tuổi

Gần đây nhất, người phụ nữ tên Mimi Alford đã lên tiếng công khai chuyện tình kéo dài đến 18 tháng của bà – vốn là nữ thực tập sinh Nhà Trắng với cố Tổng thống John F.Kennedy lúc ông còn tại chức qua một cuốn tự truyện. Bà kể, vào mùa hè năm 1962, Mimi khi đó là một cô gái 19 tuổi, sở hữu dáng người mảnh khảnh, mái tóc hoe vàng quyến rũ. Thông qua các mối quan hệ quen biết, vừa tốt nghiệp cao đẳng, bà đã đặt chân được vào Nhà Trắng làm thực tập sinh tại văn phòng báo chí.

Tại đây, Mimi đã được mời làm trợ lý tại hồ bơi trong Nhà Trắng, nơi có vị Tổng thống 45 tuổi cực kỳ đẹp trai. Mimi hồi tưởng lại, John đã nhảy ùm xuống hồ bơi kéo theo cả bà.

9 Kennedy 4Sau đó, Mimi được ngài Dave Powers – “người bạn đầu tiên” của Tổng thống và sau đó là người phụ trách tại Thư viện Kennedy ở Boston mời đến tham dự một bữa tiệc giải lao sau công việc. Tiệc tàn, JFK đưa Mimi đến một nơi gọi là “Phòng phu nhân Kennedy”. Trong căn phòng bí mật đó, Mimi cảm nhận từng hơi thở của JFK phả lên cổ mình.

JFK đứng trước nữ thực tập sinh, nhìn đắm đuối vào đôi mắt Mimi rồi dần dần, “đôi tay ông ấy du hành trên chiếc áo đồng phục của tôi, những chiếc cúc xổ tung ra sau mỗi lần ngón tay ông ấy cử động… tay ông ấy đặt lên bộ ngực trần của tôi”. Tiếp đó, hai người quấn lấy nhau, song JFK biết nữ thực tập sinh chưa bao giờ trải qua chuyện này nên đã hành động nhẹ nhàng và mơn trớn hơn.

Vậy là cô gái đồng trinh Mimi Alford đã nếm mùi đàn bà nhờ sự “trợ giúp” của JFK. Và Mimi Alford đã gặp JFK lần cuối cùng tại khách sạn Carlyle ở khu Manhattan vào tháng 11 năm 1963, chỉ 7 ngày trước khi ông bị ám sát tại thành phố Dallas, bang Texas.

Những đứa con rơi

Xung quanh hàng loạt cuộc tình với đủ mọi đối tượng phụ nữ, John F.Kennedy cũng để lại không ít “dấu vết”. Đã có một số người phụ nữ lên tiếng xác nhận mình có con riêng với vị cố Tổng thống đào hoa này.

Trong số các cuộc tình ngoài luồng của JFK, có lẽ mối tình với nữ minh tinh màn bạc Marilyn Monroe nổi tiếng nhất.

9 Kennedy 5Theo tác giả Wilson viết trong cuốn sách “Show bussiness Laid Bare”, quan hệ của JFK và Monroe bắt đầu vào khoảng năm 1961 ở khách sạn Carlyle, New York. Hôm ấy, Monroe đã hát tặng Tổng thống bài “Chúc mừng sinh nhật”. Tại khách sạn này, ông có một dãy buồng riêng mà “Chẳng ai biết những gì xảy ra trong đó”. Nhưng những nghiên cứu sau này cho thấy mối quan hệ của họ bắt đầu vào thời gian sớm hơn. Họ hay xuất hiện cùng nhau tại nhiều buổi tiệc tùng.

Cách đây nhiều năm, cư dân Mỹ “dậy sóng” khi ông John Fitzgerald Kennedy, cư dân sống tại thành phố New York khẳng định mình là con riêng của cố Tổng thống John F.Kennedy với Marilyn Monroe. Theo lời ông John Fitzgerald Kennedy, sau khi sinh được một thời gian, hai người đã trao “hòn máu rơi” cho một người bạn ở thành phố New York nuôi dưỡng. Sau đó, họ đã nhiều lần bí mật tới thăm nhưng ông John Fitzgerald Kennedy không nhớ rõ bởi khi ấy còn quá nhỏ.

ls-mai-tr-tin-3Ngoài người con riêng trên, bà Evelyn Worthington – từng là giáo viên tại bang Texas, sống tại Houston, Mỹ cũng từng lên tiếng sau khi con trai bà – doanh nhân Canada Jack Worthington, tuyên bố là con riêng của cố Tổng thống John F.Kennedy.

Năm 2009, một người phụ nữ gốc Áo là Lisa Lanett cũng tiết lộ về mối quan hệ của mình với John F. Kennedy. Thông qua tờ Kurier của Áo, người phụ nữ này cho biết, người con trai đầu lòng của bà, Tony Antonio Bohler chính là giọt máu rơi của vị Tổng thống trăng hoa.

Mai Trung Tín post